Xuất tinh sớm là một trong các rối loạn tình dục phổ quát ở nam giới. Theo nhiều nghiên cứu thì tỷ lệ mắc bệnh vào khoảng 3 - 30%, tùy theo từng nghiên cứu.
Theo Hội Y học tình dục thế giới (2008): "Xuất tinh sớm là một trong các rối loạn dục tình được đặc trưng bởi sự xuất tinh sớm trước khi hay ngay sau khi đưa dương vật vào âm đạo và mất khả năng kéo dài thời gian xuất tinh mỗi khi đưa dương vật vào âm đạo. Tình trạng này xảy ra trực tính gây nên những tác động không tốt đến người bị bệnh cũng như đối tác của họ như stress, chán nản hay không còn nô nức với chuyện tình dục".
Định nghĩa này chỉ giới hạn cho những người nam giới có quan hệ tình dục đều đặn, liền. Do tính phổ biến của bệnh mà trong lịch sử người ta đã áp dụng rất nhiều biện pháp cũng như thủ thuật để điều trị căn bệnh này. Tuy nhiên những tiến bộ mới trong việc điều trị bệnh lại tập trung chính yếu vào lĩnh vực điều trị nội khoa.
Có 3 nhóm thuốc chính đã được nghiên cứu áp dụng vào điều trị.
Việc ứng dụng các thuốc gây tê tại chỗ vào điều trị xuất tinh sớm được xem là các biện pháp nội khoa trước nhất trong lịch sử điều trị bệnh. Tác dụng của thuốc này là làm giảm độ mẫn cảm của quy đầu dương vật. Vào đầu những năm 1943, Bernard Schapiro đã thông tin về tác dụng của các thuốc này đối với việc duy trì và kéo dài thời kì xuất tinh. Sau đó rất nhiều thể nghiệm lâm sàng đã được tiến hành và cho biết thuốc gây tê tại chỗ có thể làm tăng thời gian xuất tinh lên 6 - 8 lần. Các thuốc này là những thuốc được Hội y khoa tình dục thế giới thống nhất cho điểm A trong việc ưu tiên lựa chọn các thuốc điều trị xuất tinh sớm. Tuy nhiên, tác dụng không mong muốn của các loại thuốc gây tê tại chỗ này là làm giảm độ mẫn cảm của quy đầu dương vật và âm đạo. Để loại trừ bớt tác dụng không mong muốn này, có thể dùng bao cao su.
Loại thuốc thứ hai được ứng dụng để điều trị xuất tinh sớm là các thuốc chống trầm cảm, bao gồm các thuốc như chất ức chế monoamine oxidase (MAO), thuốc chống trầm cảm loại ba vòng và sau này là các thuốc ức chế tái thu nhận serotonin có lựa chọn (SSRIs). Trong quá trình theo dõi sự an toàn của các thuốc, người ta thấy rằng một số bệnh nhân bị trầm cảm sau khi dùng thuốc này các triệu chứng trầm cảm cải thiện rõ rệt nhưng lại xuất hiện hiện tượng chậm xuất tinh và nặng hơn là giao phối không xuất tinh. Điều này đã gây nên sự để ý của các nhà dục tình học và nam học. Ngay tức thì rất nhiều nhà nghiên cứu đã tập hợp nghiên cứu đánh giá tác dụng của các thuốc chống trầm cảm trong việc điều trị xuất tinh sớm và được xem là phương pháp tập luyện điều trị xuất tinh sớm tốt nhất.
Dựa trên các nghiên cứu căn bản người ta thấy rằng serotonin, loại 5-hydroxytryptamine (5-HT) có tác động lưỡng cực. Điều này có nghĩa là khi nó tác động lên các receptor ở hậu synap trong não, chúng sẽ làm kìm hãm quá trình xuất tinh. Nhưng trái lại, khi tác động lên các receptor tự động ở sợi trục của thần kinh bản thể (5-HT1A subtype) chúng lại có tác dụng làm cho quá trình xuất tinh xảy ra dễ dàng hơn. Cơ chế điều khiển hoạt động bài tiết của các serotonin (5-HT) là cơ chế điều khiển ngược âm tính. Cơ chế này được bắt đầu từ các kích thích ở các receptor tự động của sợi trục của các dây thần kinh bản thể (5-HT1A) làm giải phóng ra 5-HT, làm cho nồng độ 5-HT tăng lên. Sau khi các receptor của các sợi tâm thần bản thể được kích thích thì tại các đầu tận cùng tâm thần, các receptor tự động (5-HT1B) cũng được hoạt hóa, khi các receptor này được hoạt hóa sẽ làm cho nồng độ của các 5 HT ở synap bị giảm đi. Ngoại giả, một nguyên tố khác cũng đóng góp vào quá trình điều khiển hoạt động của 5-HT đó là các protein vận chuyển. Loại protein này nằm trong màng bào tương của các tế bào tâm thần soma, chuyên chuyển vận 5- HT từ đầu tận cùng tâm thần và môi trường ngoại bào về khe synap.
Cơ chế tác động của các SSRIs là ức chế các protein tải nói trên, SSRIs làm cho nồng độ 5- HT tích lũy ở khoang dịch ngoại bào tăng lên, điều này làm cho các kích thích của receptor tiền synap, hậu synap và 5-HT tăng lên.
Vào năm 1973, nghiên cứu lâm sàng đầu tiên đánh giá tác dụng của clomipramine, một loại thuốc chống trầm cảm, trong việc kéo dài thời kì xuất tinh đã được công bố. Sau đó nhiều tác giả khác cũng chứng minh tác dụng của các thuốc SSRIs đối với việc duy trì thời kì xuất tinh. Tuy nhiên, việc dùng những thuốc này hàng ngày, trong thời kì dài có thể gây một số tác dụng không mong muốn như khi điều trị trầm cảm. Gần đây, để giảm bớt tác dụng không mong muốn của thuốc người ta đã dùng thuốc theo nhu cầu tức là chỉ dùng khi có quan hệ dục tình. Điều này hạn chế tối đa sự có mặt của thuốc trong thân thể nên đồng nghĩa với việc các tác dụng không mong muốn của thuốc sẽ giảm đi.
Theo kết quả của các nghiên cứu nói trên thì thời kì xuất tinh tăng lên từ 4-7 lần sau khi dùng các thuốc SSRIs. Dựa trên các nghiên cứu về lâm sàng cũng như tiền lâm sàng, Hội Y học dục tình thế giới cũng đã xếp các thuốc SSRIs vào thang điểm A trong việc lựa chọn thuốc điều trị xuất tinh sớm.
Các loại thuốc ức chế men Phosphodiesterase-5, được biết đến là các thuốc chống rối loạn cương dương, cũng đã được thí điểm để điều trị xuất tinh sớm. Một vài nghiên cứu với số người tham dự nghiên cứu còn ít cho thấy các thuốc này cũng có vai trò nhất mực trong việc điều trị xuất tinh sớm, đặc biệt là khi kết hợp với các thuốc chống trầm cảm loại SSRIs. Tuy nhiên, các nghiên cứu về sau lại không khẳng định điều này, đặc biệt là khi kết hợp với các thuốc gây tê tại chỗ. Chính vì chưa có sự hợp nhất giữa các nghiên cứu về tác dụng của thuốc đối với việc duy trì thời gian xuất tinh nên Hội Y học tình dục thế giới mới chỉ xếp thuốc này vào thang điểm C trong việc tuyển lựa thuốc điều trị.
Mặc dù cả ba loại thuốc trên đã được nghiên cứu rất nhiều về tác dụng của nó trong việc điều trị xuất tinh sớm nhưng cho đến hiện nay vẫn chưa có thuốc nào được đăng ký cho chỉ định này.
Xem thêm
>>điều trị xuất tinh sớm bằng phẫu thuật